Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

Phim tài liệu "Thơ và đời"

Phim tài liệu “Thơ và đời”
Do đài truyền hình kỹ thuật số VTC thực hiện

Hình ảnh các tác phẩm đã xuất bản




Nguyễn Đỗ Lưu với “Chiêm linh học”




Nhà văn Nguyễn Thiết

Viết “Chiêm Linh Học”, Nguyễn Đỗ Lưu bộc bạch “ Tôi không có tham vọng làm thơ hai câu. Bấy năm nay, tôi làm cái việc của kẻ đi lượm lặt những suy nghĩ, khổ đau, vui sướng của đời nó rải rác ở cõi linh tâm để chắp nên câu, nên chữ. Tôi mong rằng người đời nay và người đời sau có mở sách “Chiêm Linh Học” của tôi tìm những điều hay, lẽ dở, may gì cũng nhặt được gì đó... (trang 5- quyển I). Chẳng hạn, “Trót gây tội ác cho người/ Bóng đen ám ảnh suốt đời khổ đau” hay “ Vua tin kẻ sĩ người hiền/ Ắt dân thịnh vượng trăm miền hoan ca”.

Trong lao động sáng tạo, Nguyễn Đỗ Lưu có được sự quan sát tinh tế, giầu cảm xúc, cộng với tâm hồn nghệ sĩ nhiều chất thi sĩ “Ai từng nhặt mảnh tim tan / Mới thương bước lạnh chiều hoang đếm buồn”. Vì vậy, trong hơn 60 năm cầm bút, ông viết nhiều thể loại như kịch, truyện, tiểu luận, nghiên cứu và làm thơ. Thơ ông có các giải thưởng: Giải văn học- thơ học sinh Bắc Việt (1953), giải nhì thơ, báo “Sức Khỏe”(không có giải nhất- 1969), giải nhì thơ hội văn học nghệ thuật Hà Nội (1976) và giải chính thức chùm thơ hay phát trên sóng Đài Tiếng Nói Việt Nam (1992). Được thế mà ông cũng tự cho mình “ Dạt rều bể khổ sông mơ / Lênh đênh với nửa tứ thơ cuối trời” hay “ Cho đời cả tỉnh cả mơ / Tự thiêu bằng ngọn lửa thơ bật bùng” (trong “Năm mươi năm thơ Nguyễn Đỗ Lưu”).

Phải chăng ông tạm lắng phần sáng tác thơ, kịch ... hoặc có viết cũng thưa thớt, ông dành toàn bộ tâm lực, ngòi bút, viết Chiêm Linh hiền triết như: 101ĐIỀU NHÂN THẾ -NXB Thanh Niên 1998. Dịch MINH ĐẠO GIA HUẤN, cổ học Trung Hoa của tác giả Đại Trình Phu Tử, sang thể thơ song thất lục bát – NXB Văn Hóa Dân Tộc – 2004, được bạn đọc đón nhận làm sách cẩm nang trong nhà, như đèn soi nhân nghĩa làm người. Trong thời gian này ông cũng nhận được tin vui: NXB Trẻ thành phố Hồ Chí Minh ra tuyển tập “ Thơ Tình Bốn Phương” tuyển lựa từ 1200 năm trên toàn thế giới. Bài KIẾP HOA của ông được xếp vào hàng tuyệt bút cùng Nguyễn Du, Puskin, Attila Jozep v.v...(trang 20).

Hơn chục năm gần đây, ông tập trung bút lực để viết nhiều quyển “Chiêm Linh Học” (5 quyển Nhà Xuất Bản Thanh Niên đang in và ông đang viết tiếp quyển thứ 6) gồm gần vạn bài theo thể lục bát. Chúng hiện diện như sự tổng kết của muôn mặt đời sống được ông khái quát cao. Ở đây, vừa có tính triết học, triết lý, chân lý trong nhân sinh quan và thế giới quan sống của con người ở đời.
Đó là cách sống để làm người mà ta thường gặp ở 5 quyển sách này rất nhiều bài. Đại loại “ Lương y như thể mẹ hiền / Vì dân thì trắng, vì tiền thì đen” hoặc “Sống nghiêm đạo lý đạo đời / Lũ tham cũng ngại xu thời tránh xa” “ Nhất tâm là hướng tâm thiên / Tự tu, tự nguyện , tự yên cõi lòng”.
Đó là đỗi nhân xử thế, bởi hàng ngày, ta phải tiếp xúc, quan hệ với rất nhiều người, nhiều việc, từ ngoài xã hội đến cơ quan, công sở và về đến gia đình là ông bà, bố mẹ, anh em, họ hàng, chú bác... Vì vậy mà phải kính trên, nhường dưới. Phải biết tự trọng mình và tôn trọng người khác “ Giỏi giang xử thế ở đời / Đừng mang áp đặt cho người giống ta”. Bài khác “ Kẻ nào lấy oán báo ân / Suốt đời chẳng thể ngoi thân với người” và “ Láng giềng tốt bụng là vàng / Chẳng may xấu bụng sống ngang ngục tù” hay “ Thấy người ngộ gió giữa đường / Không, kêu không cứu, ấy phường vô nhân”...

Với tình yêu nam nữ, hạnh phúc gia đình, ông viết được rất nhiều bài đầy nghĩa tình, cả xót xa lẫn cảm động, đắng cay mà vẫn đẹp, Nguyễn Đỗ Lưu coi đây là một chủ đề lớn “Một đại bào cấu thành luật hữu sinh bất diệt của loài người” (trang5- quyển IV). “Trời sinh chi cái tình yêu / Bùa nào giải được cái chiêu vô hình” hoặc “ Yêu đến trí tuệ tâm linh / Là yêu đạt tới siêu hình trong nhau”. Bài khác “Yêu đâu phải chức quyền cao / Cho nhau là ở chỗ nào trong tim”, “Là con vì mẹ, vì cha /Là chồng là vợ phải là vì nhau” và “ Nhiều con đứa điếc đứa đui / Ít con “bảng nhỡn”, hỏi vui nào bằng”...

Cứ thế cả gần vạn bài đượm chất dân gian, ca dao, tục ngữ, viết về muôn mặt trong cõi linh tâm của đời sống con người như: “cái thấy, cái nghĩ, cái vui, cái buồn, cái khổ đau, cái tham ích kỷ và sự ác tâm mù quáng... Dẫn giải phần đức tính, đức tâm mong đạt tới trung nhân tâm thế, tới sự giác ngộ tối thường chân lý thực hiện đời thường” (Nguyễn Đỗ Lưu) “ Người còn- đấng tối linh còn / Đã không, không tất, lưu hồn cũng không”. Một bài khác vừa hiện đại vừa mang tính thời sự mà lại như một chân lý “ Đừng cho con cá ăn mầm/ Hãy cho phương pháp thả cần, buông câu”...

Nguyễn Đỗ Lưu là người có đời sống nội tâm sâu sắc, giàu chất nhân văn, từng trải và luôn chiêm nghiệm. Ông vừa là khách thể thẩm mỹ, là người sáng tạo, là nhân chứng lại vừa là chứng nhân. Ông hiểu thấu đáo quy luật vận động tư tưởng, tâm lý, sinh lý của người ở đời và đặt tên, chỉ mặt không chỉ là những hiện tượng mà còn ở bản chất của sự vật, sự việc trong tác động qua lại giữa các chủ thể mà viết ra từng bài lục bát trong một khái niệm thống nhất mà ông gọi là “Chiêm Linh Học”. Vậy “ Chiêm Linh Học” được ông khái quát, đó là “ những vấn đề thiết yếu và suy tư về những cái gần gũi với con người, cái ta tưởng như dễ bỏ qua, song chính nó đang tồn tại và sinh sôi từng giờ, quấn quýt lấy ta, để ta có một thế giới đích thực đời thường, không phụ thuộc bất cứ một phái đạo nào, nên nó độc lập, độc tôn ở cõi đời này” (trang 376- quyển IV).

Năm quyển “Chiêm Linh Học” với gần vạn bài viết theo thể lục bát, chúng không chỉ có tính thơ ca vừa lãng mạn, vừa hiện thực, vừa tâm linh vô cùng phong phú, phủ khắp và thẳm sâu nơi con người nó trực tiếp bị tác động, chi phối không chỉ ở bản năng người mà còn ở quy luật vận động của tự nhiên và xã hội. Vì vậy “Chiêm Linh Học” còn mang tính xã hội sâu sắc và nó gắn với công trình nghiên cứu về một thế giới đặc biệt, nơi con người vừa phổ cập vừa khái quát như một chân lý, triết lý vừa có tính dân gian vừa có tính bác học.
Mượn thể thơ sáu tám đậm chất dân gian, gần với ca dao tục ngữ để chuyền tải các trạng thái, nội dung của linh tâm người. Vì vậy mà độc giả dễ tiếp cận, dễ hiểu, dễ nhớ. Ở đây, có vô vàn thông điệp khác nhau với nhiều điều bổ ích thiết thực cho mỗi người trong việc ứng xử giữa người với người, giữa tình yêu nam nữ, với hạnh phúc gia đình, với cộng đồng, với xã hội.

Qua đây, bạn đọc biết thêm về tác giả, một người lao động văn chương giầu tâm huyết. Trên hết, đó là tấm lòng nhân hậu, bao dung, tự trọng và sống để yêu thương.

Những cánh đồng

Đồng không thuế má : Đồng Tâm
Tha hồ cày xới ươm mầm cây gieo
Cánh đồng bất tận phì nhiêu
Là đồng con gái gặt siêu mùa màng
( 14 – 4 – 2006 )

Gánh nước

(1)
Đêm trường trằn trọc chẳng ra văn
Sờ vại, nghiêng vò ráo nước ăn
Thủng thẳng quẩy thùng ta giếng cổ
Lựa gầu nà nõn ấy… vào trăng
(2)
Nước sạch ban ngày họ cướp nhau
Thương em kẽo kẹt khớp lưng đau
Bảy mươi à tức còn trai tráng
Giờ tý chuột nằm tớ chọi trâu
3
Lũ cún nhà ai thật lắm nhời
Nhao nhao chửi tớ lỡ thùng rơi
Người hôi có nước mai thôi bẩn
Hồn bẩn rửa gì nhân thế ơi?
(3h30 tức giờ Tý sang Sửu ngày 22 – 1 - 2006)

Tôi hỏi Tôi

Buồn đâu đến tự vu vơ
Hỏi trăng, níu nước lập lờ cứ trôi
Tôi về tôi hỏi chính tôi:
Bắn tan yêu, ghét sẽ rơi hết buồn
(23 – 8 – 2008 )

Thu đừng

Lại mùa thu nữa rồi đây
Tơi bời lá rụng mắt cây ngóng buồn.
Người thương chớp bể mưa nguồn
Thuyền không bến đậu….dăng buồm nơi nao ?
Thu đừng rơi những lưỡi dao
Hồn tôi thu chết cứa vào tái tê!
(Ngày 7- 8 – 2008 )

Tự do

Tự do chồng vợ vạn chài
Thuyền tình một chấm lâu đài lênh đênh.
( Tháng 7, 2006)

Hoa dâng lên mẹ

Người ta dâng mẹ người ta
Hoa vàng, hoa bạc và hoa đồng tiền.
Con nghèo nay giỗ mẹ hiền
Hoa khoai đồng ruộng dâng lên kính Người
Mẹ ơi! Công mẹ biển trời
Mồ hôi, nước mắt máu Người thành hoa.
( 1 – 6 Âm lịch 2006)

Bài thơ nước mắt

(Nhớ Mẹ: Nguyễn Thị Liên)
Gió đồng làng thôi đỏ cây hương
Cắm trên mộ mà còn run rẩy
Hồn mẹ đó hay chính lòng con vậy
Nhớ mẹ nhiều khói tím bờ dâu...
Thủa mắt đau
Mẹ bảo là số mệnh
Ba chín tuổi xuân
Lòa đôi mắt
Phải quờ tay nhận mặt các con
Tay chới với tìm nơi con ngã
Tiếng khóc sầu khoảng không...
Tám tuổi con tha thủi trên đồng
Trưa dắt trâu về, đội thêm bó cỏ
Thương con đói mẹ nấu niêu cơm đỏ
Gạo trộn lẫn tro, chỗ nát chỗ khê
Bưng bát cơm nước mắt nhòe
Con nhìn mẹ- mẹ là nước mắt
Lúc ra đi
Mẹ cũng bảo là số mệnh
Bốn chín tuổi xòa tay khô lạnh
Nhận mặt các con
Nước mắt ứa tràn...
Con buông cây liềm cắt cỏ
Bước vào đời,thấm nỗi đời hơn
Hành trang là quê hương
Còn tình mẹ làm đèn
Soi vào cay đắng
Có phẫn uất của ngày trời chưa rạng
Có nỗi dày vò trong mắt mẹ màn đêm
Cả những gì không thể nói lên
Chỉ có mẹ thôi mới có
Con đã viết bao dòng thương, chữ nhớ
Vẫn là câu mở đầu
Nếu thơ con là nước giếng sâu
Tình mẹ là nguồn xoa dịu ngọt.
Bốn tám năm nắng sương đi trên sợi tóc
Mới hiểu một phần nghĩa mẹ sâu xa.
6/1984.

Nỗi nhớ

Xin chớ khóc thương
Lau buồn trên mắt
Em hãy đặt bông Hồng lên trang sách –
Thơ tôi
Chỉ một bông thôi
Hương tìm về nỗi nhớ.
(Trích trong tập thơ HOA TỰ ĐẶT TÊN)

Hoa tự đặt tên


Em đi trong cõi tồn sinh
Gặp cây mềm yếu giấu mình có thương?
Giống như cây cỏ bình thường
Trải thân lầm lũi quanh vườn thế thôi.
Nở bung cánh nhỏ giữa đời
Là khi hoa đẫm nắng trời, đó em
Ấy loài hoa tự đặt tên
Mười giờ đúng hẹn là nhen sắc hồng.
7- 1966
(Trích trong tập thơ HOA TỰ ĐẶT TÊN)

Tìm em

Đến tìm em. Chẳng gặp em
Mảnh vườn quen, tiếng ve quen buổi đầu
Đi đâu? Em ở nơi đâu?
Giếng khơi ơi nụ cười sâu có đầy?
Hoa bìm buông chạm bàn tay
Vàng thương, tím nhớ một giây tần ngần.
5- 1963
(Trích trong tập thơ "HOA TỰ ĐẶT TÊN")

Mùa sen


Đố ai cấm mạ đồng xa
Đố ai cấm được tôi đừng yêu em
Gặp nhau giả bộ làm nghiêm
Ngoảnh đi để nhịp con tim quay về
Ngày lê thê, tháng lê thê
Nhà em ở cuối xóm đê tôi nhìn
Tôi nhìn tôi giữ niềm tin
Một chiều thuyền rẽ đầm sen sang bờ
Bông sen nước mắt nhuốm mờ
Trao tôi buổi ấy trước giờ em đi.
Con đường từ ấy xóm đê
Chân tôi đếm bước nặng nề nhớ em
Thuyền neo lạnh ngắt bờ sen
Hoa lìa khỏi cuống tơ ren rói bời.
Hè 1953.
(Trích trong tập HOA TỰ ĐẶT TÊN)

Đêm


Đêm hoang chập choạng đất trời
Vài ngôi sao nhợt cuối đời đầu thai
Tìm nhau năm ngắn, tháng dài
Rã hơi kiếp đế gọi hoài em đâu!

Ảnh nhà thơ



Tiểu sử

  • Nhà thơ Nguyễn Đỗ Lưu tên thật là là Nguyễn Đỗ Lưu, tên thường gọi là Đỗ Lưu. Ông sinh ngày 30/9/1937.
  • Hộ khẩu thường trú tại: Phòng 86 tổ 9, Phường Vĩnh Hưng, Hoàng  Mai, Hà Nội
  • Đã từng công tác tại Sở Văn hóa Hà Nội và vào Bộ Văn hóa.
  • Các tập thơ đã xuất bản:
- "Hoa tự đặt tên". Nxb Hà Nội, 1989.
- "Cửa mắt tình yêu". Nxb Văn hóa, 1992
- "Sóng khuynh thành". Nxb Thanh niên, 1998.
  • Các tác phẩm nghệ thuật khác:
- Kịch thơ "Chị Dậu" (1962)
- Kịch thơ "Mảnh đất thần đồng"  (!963)
- "Minh đạo gia huấn". Nxb Văn hóa dân tộc, 2004.
- "Những làn điệu chèo cổ". Nxb Sân khấu, 2002.